lao động mức thu nhập chiến lược việt nam gia đình gia nông thôn doanh nghiệp đào tạo chất lượng cao kinh tế bảo hiểm chiến lược phát triển bảo hiểm thất nghiệp việc làm người lao động công nhân nâng cao chất lượng phát triển thanh niên nền kinh tế thị trường trang thiết bị quốc tế bão bảo hiểm xã hội kinh tế thị trường
Sau Tết Nguyên đán, câu chuyện tìm người giúp việc với những gia đình ở thành phố luôn là vấn đề đau đầu. Người ta vẫn nói đùa, mà trong câu đùa có quá nửa là sự thật: kinh tế suy thoái, nhiều người, nhiều ngành nghề có thể bị thất nghiệp, nhưng osin không những chẳng lo thất nghiệp mà còn có giá hơn. Nghe lỏm được câu chuyện của "hiệp hội" osin trong khu chung cư, thấy điều này họ nói có lý: "dân thành phố mà không có dân osin tụi mình thì cũng chết...". Và để lo giữ chân osin, để họ trở lại làm việc sau kỳ nghỉ Tết Nguyên đán dài ngày, trước đó nhiều tháng, không ít gia đình đã phải treo thưởng tiền Tết hậu hĩnh, hứa hẹn tăng lương nhân dịp xuân sang...
Công nhân lao động tại Đồng Nai
Tất cả những điều trên góp phần khẳng định rằng, tìm kiếm người giúp việc giờ đây đã thành một nhu cầu phổ biến với nhiều gia đình. Và trong dự thảo Luật Lao động bổ sung, Bộ LĐTB&XH cũng đã đề xuất theo hướng công nhận giúp việc gia đình là một nghề. Chủ sử dụng lao động và người lao động phải có ký kết hợp đồng, trong đó có điều khoản về lương tối thiểu, thời giờ làm việc, giờ nghỉ ngơi, tiền lương làm thêm giờ, điều kiện lao động, các chế độ khác cho người lao động như Bảo hiểm y tế, Bảo hiểm xã hội và Bảo hiểm thất nghiệp...
Nhưng trên thực tế, nghề giúp việc gia đình vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Nếu như người Việt Nam tham gia làm nghề giúp việc gia đình ở nước ngoài được đào tạo bài bản từ việc học ngoại ngữ, kỹ năng giúp việc gia đình, cách sử dụng các trang thiết bị hiện đại trong gia đình ... thì ngược lại việc đào tạo nghề giúp việc gia đình trong nước vẫn bị bỏ ngỏ. Sự xuất hiện của những trung tâm môi giới lao động giúp việc gia đình thời gian qua chưa có nhiều đóng góp trong việc chuyên nghiệp hóa nghề osin. Ngược lại, đôi lúc còn khiến cho thị trường của lao động giúp việc trở nên nhiễu loạn.
Cũng sau Tết âm lịch, không ít DN lại đi tìm lao động. Người ta dễ dàng bắt gặp những băng rôn, biển hiệu tìm lao động giăng mắc quanh các khu công nghiệp, khu chế xuất. Rất nhiều lý do lý giải về hiện tượng khát lao động đầu năm, tuy rằng năm nay có đỡ hơn. Nào là do lương thấp, lao động muốn nhảy việc sang những công ty khác có mức thu nhập khá hơn; cùng với đó, đại bộ phận công nhân trong các khu chế xuất xuất thân từ nông dân đi vào công xưởng, tâm lý tiểu nông còn đè nặng nên khi ở quê ăn Tết họ cũng muốn nấn ná với hội hè, lễ lạt...Giãi mã hiện tượng công nhân ngành may mặc, da giầy không trở lại TP Hồ Chí Minh làm việc sau dịp Tết Quý Tỵ, các doanh nghiệp cho biết vài năm trở lại đây nhiều địa phương phía Bắc cũng có các khu công nghiệp lớn. Do đó, việc ở lại quê nhà làm việc cũng chính là một xu hướng tự điều chỉnh lao động theo vùng, miền.
Nhưng vượt lên tất cả những nguyên nhân nói trên, dẫn tới tình trạng lúng túng về lao động ở các khu công nghiệp sau Tết - thực chất xuất phát từ việc thiếu chiến lược dài hơi cho thị trường lao động ngay tại các khu công nghiệp. Đã có nhiểu phân tích của các chuyên gia trong lĩnh vực lao động việc làm rằng ngoài đào tạo người lao động vững tay nghề, để giữ chân họ, phải làm tốt những vấn đề về an sinh xã hội. Với mức tiền lương tiền công phập phù, không có nơi ăn chốn ở, thiếu trường học cho con em họ, đói món ăn tinh thần và không có gì đảm bảo cho tương lai gần của người lao động, thì câu chuyện doanh nghiệp tìm lao động sau mỗi kỳ nghỉ Tết sẽ còn là những điệp khúc buồn...
Xu hướng điều chỉnh lao động theo vùng miền những năm gần đây thực ra là một tín hiệu mừng, nhưng cũng đặt ra nhiều trăn trở. Bởi nếu việc qui hoạch các khu công nghiệp ở những vùng nông thôn được thực hiện một cách bài bản, đồng bộ, lâu nay chúng ta đã hạn chế được rất nhiều hệ lụy từ làn sóng di cư tự phát tìm việc làm sau mỗi dịp Tết. Nhưng cho đến thời điểm này, tỉ lệ thuận với nhiều vùng nông thôn được đô thị hóa, thì số lượng thanh niên thất nghiệp cũng đang gia tăng, và sẽ còn gia tăng. Dù nhà máy, xí nghiệp, khu chế xuất được xây dựng tại Hưng Yên, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh...nhưng vẫn có hai xu hướng song song tồn tại. Một là, thanh niên thất nghiệp nhiều lên; Hai là, thanh niên ở những địa phương này lại vào tận Bình Dương, Đồng Nai... để đầu quân làm công nhân với mức lương chênh lệch không đáng kể.
Gần một triệu lao động Việt Nam thất nghiệp và 1,36 triệu người thiếu việc làm. - con số do Tổng Cục Thống kê và Tổ chức Lao động Quốc tế ILO công bố cuối năm 2012 là những tín hiệu không vui. Đặc biệt trong đó, lao động trẻ chiếm tới gần 50%; người thiếu việc làm ở nông thôn là 1,1 triệu người, cao hơn rất nhiều so với thành thị (246.000 người). Nhưng xét về tỷ lệ, thì thất nghiệp ở thành thị là 3,53% cao hơn ở khu vực nông thôn với 1,55%. Lý do thất nghiệp được cơ quan điều tra đưa ra là là nền kinh tế không tạo đủ việc làm cho cả lao động mới gia nhập thị trường và bộ phận lao động thất nghiệp cũ. Dẫu vậy, phân tích từ Giám đốc ILO Việt Nam Gyorgy Sziraczki: "Hiện có một bộ phận lao động gắn liền với năng suất thấp, thiếu sự bảo trợ xã hội và thu nhập nghèo nàn. Việt Nam cần thêm nhiều nguồn lực để giải quyết các vấn đề của nền kinh tế phi chính thức..." đặt ra nhiều điều để các nhà hoạch định chính sách phải suy nghĩ.
Với mục tiêu đáp ứng nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Qui hoạch phát triển nhân lực Việt Nam thời kỳ 2011-2020, với những mục tiêu cụ thể: Phấn đấu đến năm 2015, Việt Nam sẽ đạt 55% tỷ lệ lao động qua đào tạo; 40% tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề; 300 sinh viên ĐH, CĐ trên 10 nghìn dân; 5 trường dạy nghề đạt đẳng cấp quốc tế (đến năm 2020 là trên 10 trường dạy nghề đạt đẳng cấp quốc tế và trên trường đại học xuất sắc trình độ quốc tế); 100.000 giảng viên ĐH, CĐ...Để phát triển nhân lực, những giải pháp đột phá được thực hiện bao gồm: Đổi mới nhận thức về phát triển và sử dụng nhân lực; đổi mới căn bản quản lý nhà nước về phát triển và sử dụng nhân lực. Cùng với đó là nhiều chương trình, dự án trọng điểm cũng được đề ra. Qui hoạch phát triển nhân lực cũng yêu cầu mỗi Bộ ngành và địa phương phải xây dựng quy hoạch phát triển nhân lực đồng bộ với chiến lược, kế hoạch phát triển chung của mình. Các doanh nghiệp và tổ chức phải có kế hoạch phát triển nhân lực. Bên cạnh đó, cần sử dụng rộng rãi, hiệu quả các cơ chế và công cụ của kinh tế thị trường để mở rộng quy mô, điều chỉnh cơ cấu ngành nghề đào tạo, nâng cao chất lượng nhân lực và huy động các nguồn vốn cho phát triển đào tạo nhân lực...
Chúng ta đã đang ở những tháng đầu tiên của năm 2013, không còn nhiều thời gian để chạy đua tới cái đích 2015 với những mục tiêu đã định tại Qui hoạch phát triển nhân lực Việt Nam cho tới năm 2015. Kỳ vọng nhiều vào Chiến lược phát triển nguồn nhân lực Việt Nam trong tương lai, nhưng băn khoăn lo lắng cũng không phải là ít khi Chiến lược đào tạo nguồn nhân lực hiện nay vẫn còn những bất cập: cho ra lò "thầy" nhiều hơn là "thợ"; bỏ ngỏ đào tạo và thu hút lao động tại chỗ khiến cơ hội tìm kiếm việc làm của người lao động luôn chênh vênh, không có gì đảm bảo cho sự phát triển bền vững.
Triết Giang
bão phát triển gia đình gia bảo hiểm thất nghiệp kinh tế thị trường kinh tế thị trường bảo hiểm xã hội nâng cao chất lượng bảo hiểm nông thôn quốc tế đào tạo lao động việc làm chiến lược phát triển trang thiết bị công nhân mức thu nhập người lao động việt nam thanh niên chất lượng cao doanh nghiệp nền kinh tế chiến lược
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét